Trì giới kiêm nhẫn nhục

0 đánh giá - 0.0/5 điểm


持戒兼忍辱

無常諸法行,

心疑罪便生。

本來無一物,

非種亦非萌。

日日薱境時,

景景從心出。

心境本來無,

處處巴羅密。

喫草與喫肉,

種生各所食。

春來百草生,

何處見罪福。

持戒兼忍辱,

招罪不招福。

欲知無罪福,

非持戒忍脣。

如人上樹時,

安中自求危。

如人不上樹,

風月何所為?

Trì giới kiêm nhẫn nhục

Vô thường chư pháp hành,

Tâm nghi tội tiện sinh.

Bản lai vô nhất vật,

Phi chủng diệc phi manh.

Nhất nhật đối cảnh thời,

Cảnh cảnh tòng tâm xuất.

Tâm cảnh bản lai vô,

Xứ xứ ba-la-mật.

Khiết thảo dữ khiết nhục,

Chủng sinh các sở thực.

Xuân lai bách thảo sinh,

Hà xứ kiến tội phúc?

Trì giới kiêm nhẫn nhục,

Chiêu tội bất chiêu phúc.

Dục tri vô tội phúc,

Phi trì giới nhẫn nhục.

Như nhân thượng thụ thì,

An trung tự cầu nguy.

Như nhân bất thượng thụ,

Phong nguyệt hà sở vi?

Dịch nghĩa

Tất cả mọi hiện tượng đều luôn luôn biến diệt,

Khi “tâm” đã ngờ thì “tội” liền sinh ra.

Xưa nay không có một vật nào hết thảy,

Chẳng có gốc cũng chẳng có mầm để cho chúng xuất hiện.

Hàng ngày khi ta đối diện với ngoại cảnh,

Thì cảnh này cảnh nọ đều từ tâm sinh ra,

“Tâm” và “cảnh” vốn đều là không,

Khắp nơi đều là ba-la-mật.

Ăn thịt và ăn cỏ,

Chúng sinh loài nào có thói quen của loài đó.

Như mùa xuân đến, trăm hoa cỏ sinh sôi,

Có chỗ nào nhìn thấy tội hay phúc đâu?

Trì giới và nhẫn nhục,

Chỉ chuốc tối chứ không chuốc phúc.

Muốn biết không tội phúc,

Thì đừng trì giới, nhẫn nhục.

Như khi người trèo lên cây,

Là đang trong bình an lại tự tìm lấy nguy hiểm.

Nếu người ta không trèo cây,

Thì gió lay, trăng dọi, có làm gì được.

(*) Bài thơ Trì giới kiêm nhẫn nhục của nhà thơ Tuệ Trung thượng sĩ , được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.