Những người không có địa chỉ

100 đánh giá - 4.0/5 điểm


Tác giả : Thu Bồn

Tập thơ : Oran 76 ngọn (1979)

Đội trinh sát Việt Nam có chín người chiến sĩ

lớn nhất là Trung hăm bảy tuổi đời

nhỏ nhất là Phiên mười tám tuổi

họ mang theo một điện đài

mỗi người một túi lương khô

súng đạn bên mình nặng trĩu

áo quần bay loang lổ những đốm nắng rừng

họ lục hết áo quần

bỏ ra hết những tờ chứng chi

kể cả thư người yêu vừa mới nhận

từ nay họ không còn lận đận

công việc của đời riêng

họ không cần qua một vọng gác nào

tín hiệu họ vẳng lên từ những tầng cao

báo đến một căn lều che kín

người mật mã viên dịch lời họ ra bằng điện tín

hình bóng họ đương đi lững thững phía chân đồi

hay luồng lách qua những tai mèo núi đá

chân họ bước lên những vùng đất lạ

đầy bom mìn rắn rết hố chông

họ làm giật mình đàn rái cá lúc sang sông

làm ngơ ngác bày nai trên đồi cỏ

họ nhanh hơn luồng gió

lúc vượt đường chân họ giống chân chim

đoàn xe giặc đi qua họ lại nằm im

xe đi khỏi họ biến vào hoang vắng

phân đội cắt một đường như tia nắng

họ xuyên rừng về quân khu Đông

nghĩa quân đương mở cuộc phản công

nhưng lực lượng giữa rừng quá ít

quân thù đương đông nghịt

ngày một ngày hai chúng sẽ siết vòng vây

làm sao giữ được ngọn lửa này.

trước ngọn gió bạo tàn đang thổi rốc

lửa đã nhen từ làng Iapốc

từ miền Đông nối Iộ Đông Dương

đây là mệnh lệnh của chiến trường

phải bảo vệ chiến khu lớn mạnh

quả đấm của chiến tranh thần thánh

cũng đã bay về từ biên giới Thái Lan

người trinh sát mặc quần áo bay đi vào đại ngàn

tiếng maníp vang lên tìm kiếm

một tiếng nói từ lâu lặng nín

ỗng vang lên từ đáy rừng sâu

Mekong đây Mekong đây!

người chiến sĩ vội vàng trèo lên cây

với vòng ăngten kéo vòm trời xuống thấp

ruột gan Trung cồn cào như lửa bốc

Mekong đâu rồi Mekong đâu!

Mekong hãy cố lên!

Mekong đâu?

rừng tà beng mông mênh

chỉ có tiếng chim rừng trêu chọc

trên cành cây vài ba con sóc

đuổi nhau làm rụng trái gắm tươi

mấy con chim két chây lười

nằm đợi chín trái chua trên miệng

Mekong đương bước vào tử chiến

số phận của sư đoàn là số phận của nhân dân

những người trinh sát lại hành quân

mùa khô cạn đường rừng vất vả

họ tìm rong rêu trên từng phiến đá

để áp làn môi mứt nẻ cháy khô

đâu nước Mekong đâu nước biển Hồ?

hai vùng nước gợi lòng ta thêm khát

sỏi đá cắn bàn chân rách nát

nhìn tấm bản đồ mắt đã hoa

trèo lên cây nhìn phía xa xa

vài cột khói dựng lên lặng lẽ

lòng anh bỗng nhớ về quê mẹ

sông Hồng một dải êm ru

ôi con sông đã chảy tự mùa thu

Hà Nội đó lòng ta thương nhớ quá

những con đường rung rinh bóng lá

những con đường hoa sữa về khuya

tấm áo chưa lành mẹ vẫn đem chia

nửa vạt áo che ra ngoài biên giới

còn em bên sông Thương chờ đợi

hoa gạo cuối trời rụng đỏ chân đê

chín con người ở chín miền quê

ai cũng có một người hò hẹn

chỉ có Phiên là e thẹn

khi nghe Trung đùa chuyện vợ con

ngày hành quân tạm biệt Sài Gòn

Phiên có quen thân cô bạn

mười tám tuổi một vầng trăng sáng

một vầng trăng chưa khuyết bao giờ

trong sổ tay ghi những câu thơ

người con gái tặng anh làm kỷ niệm

người con gái ấy thường mặc áo màu hoa tím

thường hát về miền Đông đôi mắt mở tròn

Phiên đã trả quyển sổ tay và nói hết nỗi lòng

là trinh sát tôi không thể giữ quyển sổ tay của bạn

những lời thơ trong sáng

tôi đã thuộc hết rồi

khi nào bạn đến với núi đồi

gió cũng thuộc những lời của bạn

mà tôi đã đọc nhiều lần cho những lá thông nghe

nếu vào rừng bạn hỏi suối khe

suối cũng nói những lời như vậy

mẹ tôi vốn quanh năm cày cấy

người đợi tôi về như đợi lúa đơm bông

có khi nào bạn đến một dòng sông

bên trong bên đục

làng tôi tên là Xuân Dục

trước sân trường tôi học có cây đa

nơi đó mẹ sinh tôi ra

con chà chiện thường kêu trong giấc ngủ

quê hương tôi bốn mùa lam lũ

bạn có về chịu khó qua sông

bạn xắn quần cao để lội cánh đồng

nơi đó tôi chăn trâu và cất vó

nơi tôi đã chạy thi cùng ngọn gió

bạn cứ về hỏi mẹ tôi xem

khi nào lớn cao tôi sẽ gọi bạn bằng em...

chúng tôi đi đi mãi giữa rừng

tín hiệu vang lên rồi tắt ngấm

đêm lửa không còn sưởi ấm

lửa làm bia cho đạn quân thù

chúng tôi cõng nhau đi, cơn sốt rét dập vùi

chúng tôi ôm trong lòng cái đói

rừng toàn gỗ không cho cây trái

chỗ nào chúng tôi cũng gặp quân thù giết hại bà con chúng chặt đầu người già, moi ruột trẻ em

các thiếu nữ chúng thay phiên hãm hiếp

thoả mãn xong chúng đem cắt tiết

để các em thân xác loã lồ

chúng tôi đi qua nhũng cánh đồng khô

nuốt nước mắt vào lòng căm giận

chúng tôi luôn tiếp cận

với cảnh này đau đớn lắm em ơi!

người chỉ huy vuốt mái tóc rối bời

cắn chặt hàm răng suy nghĩ

chúng ta là những người chiến sĩ

phải cứu giúp dân

dù lần lượt chúng ta ngã xuống cũng không cần

nhưng nhiệm vụ trên giao rất nặng

chúng tôi đã qua bao nhiêu cay đắng

những cánh rừng không tên

và người chết không tên

mấy triệu người cây cỏ sẽ lãng quên

Campuchia ơi! tôi yêu người, yêu lắm!

trên thân thể người máu tắm

mẹ quê nhà có nhớ con không?

đất đai này cũng có dòng sông

có bà mẹ cũng hiền như mẹ

cũng có con chim sẻ

tiếng kêu làm võng lúa trên đồng

trong rừng sâu cũng có con công

xoè cánh múa suốt đêm không mỏi

cũng có những mái nhà bốc khói

êm đềm như khói mọi làng quê

cũng lốc cốc mõ trâu những buổi chiều về

hạt lúa củ khoai giọt mồ hôi to mặn

mặt trời mọc phương đông

phương tây mặt trời lặn

nước mắt chảy tràn bán đảo Đông Dương

(*) Bài thơ Những người không có địa chỉ của nhà thơ Thu Bồn , được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.