Đòn xe bò từ Cátđamôn trở về

155 đánh giá - 3.0/5 điểm


Tác giả : Thu Bồn

Tập thơ : Oran 76 ngọn (1979)

ngơ ngác... ngơ ngác...

những con bò rừng sợ tiếng rú ô tô

                 kéo luôn cỗ xe bò xuống vực

người gẫy xương

xe gẫy trục

hai con bò chạy trở về rừng

nhưng rồi, những cỗ xe vẫn nườm nượp kéo nhau đi

bụi bặm nắng nôi đường số Năm

bụi bặm nắng nôi đường số Sáu

nước biển Hồ đục ngầu

trời lặng gió

Poipết, Xixôphôn

Uđôn, Phnôm Pênh...

những con đường bụi đỏ

những cỗ xe bò lọc cọc

bánh lún sâu vào bụi đường

vào lửa mặt trời

những con bò cổ đeo đầy nhạc

hai bên tai bò đeo hai cái màng che mắt

bò hãy nhìn về phía trước

đừng tơ tưởng đến cỏ non

làm chậm chạp cuộc hành hương

người đánh xe bò đã ngủ trên đống cỏ khô

                         đối diện với mặt trời

thỉnh thoảng người đánh xe bò ngồi dậy

phất một roi vào đít con bò

cỗ xe chồm lên

con bò vẫn đi đúng hướng

nhưng người chủ muốn tỏ cho con bò biết rằng

                   ta vẫn thức và hãy coi chừng

lọc cọc, leng reng...

lọc cọc, leng reng...

con đường bụi mù dằng dặc

giữa hai đầu bò là càng xe cao vút

đuôi con rắn thần Naja nhem nhuốc

trang trí bằng những túm lông bò

những chùm tóc rối

con bò luôn thấy mình có tội

tiếng rống đến trọn đời còn mang chiếc ách cong

trên xe chẵng có mui trần

vài mảnh nilông vải bạt

            phòng những cơn mưa đột ngột

vài xoong chậu nồi đồng để hứng nước mưa

vài ống bương tre đựng muối

dăm ba chiếc giỏ đan bằng lá thốt nốt

đựng những vỉ cá sém đen

những đứa trẻ con da cháy như đồng hun

đầu quấn chiếc khăn rằn lấp ló

đôi mắt non hau háu

nhìn trời cao kiếm tìm

người lấy thốt nốt từ trên cây xuống

mang những ống thốt nốt tươi như sữa loãng

cổ họng những đứa trẻ con nở giãn

đôi mắt chúng mở tròn

người khổng lồ quấn xà rông

                đã đem những bình sữa vắt

từ ngực bầu trời xuống cho các con

hãy uống đi cơn khát trẻ thơ

cây thốt nốt không bao giờ cạn nước

dù mặt đất này không còn một giọt nước cho chim

chim bay đến biển Hồ chim bay đến Mekong

quê hương của chim là những dòng sông

có những bóng cây xanh mát

dòng sông của các em là rừng thốt nốt

                         tuôn chảy dưới bầu trời

chưa bao giờ người Campuchia uống thốt nốt

                            ngon đến thế

trẻ con uống nước nhoè ra

                 mặt nhem nhuốc bụi đường

người đánh xe uống ừng ực

      nước chảy xuống râu từng giọt từng giọt trắng

người goá phụ uống nước

                 tràn xuống bầu vú lép khô

cô tưởng nhớ những ngày con gái

                       và mặt bỗng đỏ bừng

nhìn người đánh xe bò - bạn đường trong cuộc

                            hành hương về đất tổ

bỗng nhiên cô ngẩng mặt nhìn trời

                    tìm kiếm một cánh chim

một con chim có lẽ là loài sáo

vì chứng cớ còn đây: phân chim vãi đầy bên miệng ống

một con chim đến uống nước thốt nốt sáng nay

Na sáo sậu Campuchia bài ca con sáo

hãy hát đi

người đánh xe bò lăn ra ngủ

đôi chân anh gác lên càng xe

đôi bàn chân nứt nẻ như vỏ cây thốt nốt bên đường

tiếng ngáy anh nổi lên như cơn sấm báo mưa

người goá phụ kéo tấm xà rông

                 đắp lên khuôn mặt của anh

cô không muốn nắng trời đến cướp hết

                    những mảnh nâu còn lại

trên gò má cao, vầng trán rộng

- mảnh nâu tự do cuối cùng

của Campuchia còn sót lại của đời cô!

vườn xoài mát bên đường nơi dừng chân của khách

người xuống xe

bò được tháo càng

những đứa trẻ con bắt đầu chạy giỡn

những người bán thốt nốt

            gánh những ống bương chạy đến

làm thành những hàng rào dịu ngọt

lời mời rao êm ả hơn ru

năm ống một ly vàng, năm ống một ly vàng

thôt nốt còn tươi

hãy uống đi nỗi khát

những đứa trẻ con cổ rát

kêu gào mẹ đổi nước cho con

"mẹ đổi nước cho con!"

vàng mẹ không còn

chiếc quần bò của cha còn để lại

một cái quần có hai con ngựa xé tấm da bò

mẹ đổi hai ống nước

uống đi con!

những đứa trẻ uống căng đầy bụng

cái khát chay lên mồm

chúng mang nước đến cho người mẹ

nhưng người mẹ lắc đầu ngậm làn môi khô rát

cả cánh đồng nứt nẻ phía bên kia

ôi những cánh đồng khô đến tận lòng ta

con sông chảy về đâu ?

nước mắt chảy về đâu?

những con bò nhai cỏ khô đang khát

tiếng bò ưm nghe nhức cả vườn xoài

những chiếc nồi mở vung

những bao gạo trút ra

bên cạnh vũng trâu đằm

bên cạnh vũng bò lăn

hỡi những con nòng nọc

sao không đứt đuôi nhảy phắt lên bờ

hỡi những con ếch nhái

đồng ruộng ngoài kia sao không nhảy lên đi

hỡi những rong rêu không tìm đến dòng sông!

có một vũng trâu đằm mà biết bao cuộc sống ?

hỡi Uđôn núi cao rừng rậm

hỡi Oran 76 ngọn xác xơ

giờ này núi khát của người còn lớn cao vòi vọi

hơn nỗi khát thường của một cuộc hành hương

(*) Bài thơ Đòn xe bò từ Cátđamôn trở về của nhà thơ Thu Bồn , được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.