Phần một, Phần hai & Phần ba tập "Bùi Quang Thanh Thơ"

184 đánh giá - 5.0/5 điểm


Tác giả : Bùi Quang Thanh

Phần Một: ĐÒ DỌC - SÔNG ĐÊM

(Trích trường ca)

Kính dâng Mẹ và Quê

Đò dọc - sông đêm

Chòng chành thuyền xuôi nhịp sóng

Đỏng đảnh mảnh trăng đầu tháng

Sông ngà vẩy bạc lăn tăn

Như là bơi giữa sông Ngân

Sao trời xé hình lưỡi mác

Lao xao tiếng cười tiếng hát

Anh thành trẻ lạc bồng lai

Chập chờn ruộng lúa bờ khoai

Sông Cày gợi về quê kiểng

Tóc em gợn mùa bưởi chín

Mắt huyền lúng liếng sông đêm

Bờ ơi! Người lạ, bến quen

Đêm chẳng chia người quen lạ

Đêm chẳng để em xấu hổ

Khi anh vô tình cầm tay

Chiêu Trưng - Người rã hội ngày

Mình anh thơ thẩn bến Cày, đò đêm

Phải thần, phải thánh xui em

Hay vì trời đất vốn quen ỡm ờ

Bàn tay chưa hết hững hờ

Sóng lòng đã rộn đôi bờ sông đêm

Người ơi! Bờ lạ, bến quen

Sáng rồi anh dắt tay em lên chùa

Sông dài, nhẹ mái chèo đưa

Đường đây đến đó chắc vừa hết đêm.

I

Huyền thoại núi Hồng

Hình như có tiếng đàn chim

Bay về từ trang huyền thoại

Cánh vỗ mơ hồ xa ngái

Như từ tít chín tầng mây

Mẹ bảo: xưa chim về đây

Đậu kín non Hồng trăm nhỏn

Đàn chim lông hồng, đốm trắng

Mắt biếc sao trời, kiêu sa

Mẹ bảo: chưa có bao giờ

Đàn phượng hoàng oai đến thế

Dang cánh tung vờn sóng bể

Đuôi dài tha thướt mây mưa

Núi Hồng như có châu sa

Lam Giang lắng dòng quên chảy

Chim Phượng đầu đàn lộng lẫy

Đảo mình ngó khắp bốn phương.

Một dải:

Hoành Sơn chắn mặt Nam

Hồng Lĩnh vờn phía Bắc

Dãy Trường Sơn chạy dọc

Sóng biển Đông giăng ngang

Ba phía ngút rừng xanh

Một bên trùng bể biếc

Gió đồng ngân khúc nhạc

Hồ trong gợn sóng lòng

Nước trăm mạch, trăm sông

Chảy xuôi cùng một hướng

Thế hổ chầu, long cuộn

Cảnh gấm dệt, vóc thêu...

Phượng đầu đàn khẽ kêu:

“Dải đất này đẹp quá!

Qua bao vùng quen lạ

Chưa nơi đâu sánh bằng”

Cả bầy chim đồng thanh:

“Dừng đây thôi. Tuyệt! Tuyệt!”

Cây bỗng xanh da diết

Đồng rực rỡ muôn hoa

Sông Lam cùng sông La

Lại ồn ào dậy sóng

Cả một vùng Ngàn Hống

Chim thú hát ca vang

Hát rằng:

“Núi không cao, biển không sâu

Người chưa đông, đất chưa giàu

Độc đạo một đường Nam - Bắc

Đông - Tây nối tận năm châu

Nắng nỏ trái đời thêm ngọt

Bão giông gốc rễ càng bền

Việt Thường dẫu chìm vào đất

Khí thiêng sông núi càng thiêng

Đất này: địa linh - nhân kiệt

Đất này: muối mặn, gừng cay

Đất này: đá mềm chân cứng

Chim lạc chim hồng đừng bay...”

Chim lạc chim hồng đừng bay!

Sải cánh kiêu sa chùng xuống

Mây trắng rẽ hình cánh phượng

Đuôi dài vuốt sắc xòe ra

   *

       *       *

Lời đồn đại tự ngàn xưa

Chim thần đi tìm đất đế

Nơi nào đàn chim chịu ở

Nơi đó sẽ là kinh đô

Vì sao ông Đùng khổng lồ

Chẳng xây đủ trăm ngọn núi?

Vì sao đàn chim huyền thoại

Không là chín mươi chín con?

Và từ chót vót chon von

Sải cánh uy quyền chững lại

Một phút giận - hờn - tiếc - nuối

Bóng hồng vút thẳng trời Nam...

      *

  *       *

Nín đi! Đừng khóc. Kìa em

Gạt sương đuôi mắt đợi xem chim về

Dẫu là sải đến muôn quê

Chim hồng chim lạc chẳng chê đất nghèo

Bóng xưa da diết mỗi chiều

Ráng mây chín đỏ câu Kiều thiết tha

Dáng xưa gần gũi chan hòa

Trên lưng mẹ buổi nắng nhòa mưa chan

Lá tơi xếp cánh đại ngàn

Chiếc khăn mỏ phượng đoan trang thuở nào

Mớ ba mớ bảy yếm đào

Như là đuôi phượng ghim vào thời gian

Miếng trầu cánh phượng bà têm

Cay từ nỗi nhớ đêm đêm góp thành

Hồng Lĩnh đỏ, dòng Lam xanh

Hiền hòa, chung thủy, đất lành đợi chim.

II

Nơi ấp trứng

Trứng Rồng nở ra Rồng. Lũ Rồng con chúng tôi lớn lên trong chiếc tổ cong cong hình chữ ét (S), đầu gối lên núi Bắc, chân gác sóng biển Nam. Chiếc tổ như dáng rồng bay lượn, như dáng hình con sóng, chênh vênh bên nước bên non, chênh vênh nối Trời với Đất. Lũ Rồng con không vương miện, không lòe loẹt sắc màu, ở với đất có màu nâu bùn đất, ở với rừng nhuốm màu chàm màu lục, ở với sông có vẩy bạc vây trong. Trăm năm rắn thành tinh, ngàn năm Rồng cứ là Rồng, giữa vần vũ mây mưa vẫn mơ mòng phun châu nhả ngọc.

Những nhà thông thái nói: Mọi sinh vật bắt đầu từ nước. Mẹ tôi bảo: Cá gáy vượt thác Vũ Môn để hóa ra Rồng. Tôi đến Vũ Môn, nơi giao thoa giữa Trời với Đất, thấy ngọn thác từ chín tầng trời rơi vào trang cổ tích, thấy chín tầng mây chất chồng lẫn vạt ngô non (có phải cha ông tôi xưa dựng nên đỉnh Giăng Màn, cho cá gáy hóa Rồng qua màn mây trướng gió) - gió chẳng vô tình, mây không buông thả cứ hát khúc nghìn năm con cháu Tiên Rồng.

Em nhìn kia: Phía ráng đỏ là cuối dòng sông; nơi lát nữa vừng dương sẽ mọc, nơi gặp gỡ của nguồn non mạch nước và con đò đêm chúng mình sẽ cập bến Long Ngâm. Long Ngâm - vẫn là những thân rồng xoắn quện vào nhau thành hình hài

xứ sở - đã nghe nồng mặn xóm diêm, xóm chài, sóng lay bờ đá... muôn âm thanh hòa tấu tự Thiên Cầm vọng mãi Đèo Ngang. Kỳ vĩ vì thắng cảnh, xúc động bởi chiến công, một dải non xanh nước biếc trập trùng mà hội tụ bao thăng trầm lịch sử. Đứng ở đây, em có nghe tiếng đàn trời thả vào trong âm âm sóng gió, tiếng mười vạn tiền quân cùng Lý Thường Kiệt vượt Đèo Ngang vào Ô, Rí bình Chiêm; mười vạn hậu quân reo làm yên lòng vua Trần và quân dân Đại Việt; mười vạn trung quân theo voi Nguyễn Huệ đập tan lũ xâm lược kiêu hùng...

Đứng ở đây nhìn ra ba phía núi, những vỏ trứng Rồng lúp xúp ẩn hiện mây mưa, tôi biết rõ vỏ trứng nào sinh đế, sinh vương, vỏ trứng nào sinh thi nhân dũng tướng.

Cám ơn mẹ Âu Cơ khéo khâu chiếc tổ Rồng cheo leo trên bán đảo để khúc ruột miền Trung thành nơi ấp trứng sinh nở anh hào. Những đứa con của Long Quân vươn vai đi mở nước, không vương miện trên đầu mà rực rỡ trời sao.

Và chính em - những gái cưng của mẹ - đảm đang, chung thủy, dịu hiền. Em chẳng biết mình là vành nôi của bao thế hệ, lời ru ngọt ngào cho đất nước hồi sinh.

III

Lay thức

Tình cờ tôi tìm được cuốn lý lịch ông tôi chuột đã gặm bốn bề, nanh vuốt thời gian bập vào quá khứ. Từng con chữ long lanh như mảnh thủy tinh vỡ soi vào tôi bằng giọt mắt  ngấn sương. Chẳng hiểu vì bận bịu hay vô ý thức mà tôi đánh mất dần

những gì còn lại của tổ tiên, đánh mất một thời vinh quang và cay đắng. Để lúc chiêm ngưỡng các tượng đài, lướt qua nhà truyền thống, tôi trầm trồ thán phục như trước các chiến tích siêu nhân. Thì ra lũ chuột thính mũi nhọn răng lại ưa máu thịt cha ông đẫm trong lịch sử.

Trước mặt tôi là ngày mai. Sau lưng tôi là quá khứ. Tôi đón nhận Ngày Mai dửng dưng. Tôi vĩnh biệt Hôm Qua thờ ơ như người buồn ngủ. Tôi vô tư nuốt những tháng ngày ngắn ngủi tạo hóa ban cho. Ngửa mặt lên trời tu chén rượu, liếc mắt

xuống đất kiếm nụ hoa. Bầu trời đầy mây bông mà tôi không nghĩ được tôi chẳng thể so với những chùm mây lơ đãng ấy. Mây hợp, mây tan, mây rữa thành mưa bụi nhưng mây vẫn là mây trong vũ trụ xoay vần. Bông hoa nào cũng xinh tươi và mới mẻ. Bên cạnh bông đang chuyển nụ còn chỗ của bông hôm qua đã tan vào gió chẳng để lại hình hài. Tôi không được như mây: tái tạo. Tôi không được như hoa: rực rỡ một thời. Tôi là tôi thôi: lu mờ, hờ hững, nhỏ nhoi, nếu sôi động chút nào - có chăng - cũng vì miếng ăn tấm mặc, cũng vì gió lay mưa thức trong xôn xao chợ búa kiếp người.

Tôi là tôi thôi: kẻ mắc nợ trần gian như chúa Chổm - nợ bầu trời một ngụm ô xy, nợ cánh đồng một bông lúa chín, nợ mẹ đôi bầu sữa lép với câu đò đưa bên cánh võng ngọt ngào. Tôi nợ giọt mồ hôi trượt qua nếp hằn trên trán bố, nợ cây đa đầu làng chìa râu cho tôi đu võng tuổi thơ. Tôi nợ con sông quê khi vùi tấm thân lấm láp giữa dòng trong vắt, sông gột rửa tôi bằng giọt lòng, gạn những gì tôi bỏ lại, lắng đọng đôi bờ thành dịu ngọt phù sa.

Tôi là tôi thôi: một sớm giật mình nhìn những mẫu chữ thủy tinh chuột gặm, cuống cuồng chạy đi nhặt nhạnh chắp nối quá khứ tiền nhân. Cha ông tôi chứ đâu phải thiên thần. Những mẫu chữ kết vào nhau thành sợi xích nối tôi với các thế hệ xa xưa, sợi xích kéo tôi ngược dòng thời gian nhưng không lạc vào vườn cổ tích. Nơi tôi đến là nơi rất thực và tôi đã tìm ra báu vật của mình.

Lịch sử ông cha - Lịch sử xuyên qua nắng - mưa - máu - lửa. Những trang huyền thoại kia truyền từ đời này sang đời nọ là để thi vị hóa cuộc trường tồn gian khổ trên dải đất chênh vênh. Lịch sử ông cha tôi có hình dạng tảng băng: một phần

nổi, ba phần chìm, kẻ vô tâm chẳng thể nào hiểu được.

Ai dám bảo chín chín đỉnh non Hồng không phải là ẩn số. Ai chưa dám tin Kinh Dương Vương từng tọa lạc nơi này. Đàn chim phượng vô tình vỗ cánh hay tôi vô tình để một mắt xích còn thất lạc đâu đây?

Đừng dùng mũi xà beng cậy vào núi đá mong khơi lên cổ vật ngàn đời, sau đám mây ảo mờ Hương Tích - nàng Diệu Thiện ôm nguyệt cầm cất tiếng hát khơi vơi. Nàng hát về dải đất hẹp phơi mình trong gió cát, những người nông dân một nắng

hai sương tần tảo nuôi đời. Rằng giọt mồ hôi trên hạt thóc củ khoai cũng mặn không kém gì muối chưng lên từ biển. Rằng: Chẳng phải ngẫu nhiên mà hạt lúa cũng tự mình hai đầu biết nhọn. Rằng: Dòng Lam trong xanh bởi đầu nguồn Ngàn Sâu, Ngàn Phố xanh trong. Cám ơn nàng đã nhắc ta lẽ sống: Cội nguồn.

Nàng kể: Từ nền Trang Vương nhìn ra bốn phía, phía nào cũng đầy ắp giai điệu thơ - phú - dân ca. Lời kẻ sĩ mịn như Hoa Tiên, đẹp như Kiều, nghênh ngang như Uy Viễn. Lời phường cấy, phường cày mộc mạc vè dặm; tha thiết giọng đò đưa, phường vải, ca trù.

Nàng kể về những chiếc áo tơi xù lông trong nắng hạ, những cặp môi thắm trầu chín đỏ buổi chiều đông cứ xôn xao bốn phía ruộng đồng lời vấn vít yêu đương cùng bao chuyện nhân tình thế sự...

Cái giàu đang ở tương lai - cái nghèo chưa thành quá khứ. Những câu ca muôn thuở giăng mắc cõi lòng...

IV

Viết từ những câu ca

“Yêu quê yêu nhất cánh đồng”

Đồng chua sông mặn cò không lối về

Nghìn năm vẫn mái tranh quê

Mẹ tôi tơi lá nón mê chống trời

“Tháng ba trong nước em ơi”

Củ khoai tím cả vỏ ngoài ruột trong

Mẹ làm cánh vạc mom sông

Cha buồn như lão Thần Nông mất mùa

Đói lòng nên mỗi câu ca

Cũng thơm “rau muống với cà dầm tương”

Đất nghèo hạt chữ câu cơm

Áo nâu lộn trái đỡ sờn nắng mưa

Lát bầu héo ủ thành dưa

Mít non làm nhút, kh

(*) Bài thơ Phần một, Phần hai & Phần ba tập "Bùi Quang Thanh Thơ" của nhà thơ Bùi Quang Thanh, được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.


Đánh giá của bạn

    Tags: