Phù Đổng Thiên Vương

167 đánh giá - 4.0/5 điểm


Tác giả : Huy Cận

Tập thơ : Hai bàn tay em (1967)

Tặng thiếu nhiên Việt Nam anh hùng

Anh viết bài thơ kể chuyện xưa

Tặng mừng muôn triệu em bây giờ

Chúng ta con cháu dòng Phù Đổng

Cứu nước vùng lên tự tuổi thơ

Giặc Mỹ ngày nay gieo thuốc độc

Lo dân không phải việc nhà vua

Cứu nhà cứu nước dân theo Đảng

Hào kiệt là con cháu Bác Hồ

Nhớ lại cha ông từ mở cõi

Đã lên ngựa sắt, nhổ tre bờ

Quật tan giặc nước. Bàn tay ấy

Nay cắm chông tre lùa Mỹ vô.

I

Thuở ấy lũ giặc Ân

Như một luồng gió độc

Thổi tràn vào đất nước

Tên còn gọi Văn Lang.

Sông nghẹn dòng sủi váng

Cỏ cháy rụi bên đường

Nước nhà cơn hoạn nạn

Đau đớn cả vừng dương.

Chân giặc đi lở núi

Lính ngựa kéo rần rần

Thế khó bề chống giữ

Ta tổn tướng hao quân.

Chồng: giặc bắt làm lính

Vợ: nó cướp làm hầu

Chúng giết sạch, đốt sạch

Trụi vườn xanh, ao sâu.

Vua liền sai sứ gia

Loa gọi khắp xa gần

Hỏi ai người thiên hạ

Ra cứu nước, phò dân.

Tiếng loa gọi anh tài

Sông chạy truyền xuống biển

Núi dội tiếng tù và

Tận hang cùng, ngõ hẻm.

Ngựa sứ giả đã mệt

Đi khắp chợ cùng quê

Mà ai người hào kiệt

Vẫn chưa nghe tâu về.

Lệnh về huyện Tiên Du

Lệnh về làng Phù Đổng

Đồi cùng ruộng nhìn nhau

Hỏi đâu người dũng tướng

II

Làng có một nhà khó

Sinh con chẳng biết ngồi

Nêu ba lần dựng ngõ

Con chẳng nói chẳng cười.

Cha chết, mẹ tảo tần

Nuôi con, nhà chiếc bóng.

Mẹ chẳng sợ con lăn

Nằm thúng treo lên gióng.

Buổi chợ về hạ thúng

Cho con bú, nựng con:

- “Mẹ như gà ấp trứng,

Con bao giờ lớn khôn?”

Chợt nghe tiếng loa gọi

Em bé vụt lớn lên

Thúng bỗng thành chật chội

Đứt cả những đường niền!

Mẹ mới ngạc nhiên sao!

Lần đầu em cất tiếng:

- “Mẹ mời sứ giả vào

Cho con thưa câu chuyện”.

Giọng em nói ầm vang

Như sấm chiều mùa hạ.

Mẹ già nghe bàng hoàng

Nửa mừng và nửa lạ.

Sứ gia vào, kinh ngạc,

Con ngựa hí reo lên

Cổ vang rền lục lạc

Rồi co vó quỳ bên.

- “Nhờ sứ gia tâu vua

Cho tôi con ngựa sắt

Nặng nghìn cân thì vừa

Và kiếm rèn thật sắc!”

Sứ vội vã về triều

Đi nhanh hơn gió thổi.

Lá bên đường quạt theo

Cho ngựa phi đừng mỏi

III

Vua mừng khôn xiết kể

Gọi một nghìn thợ rèn

Đục núi cao làm bễ

Lửa rực trời ngày đêm.

Tháng, rèn xong ngựa sắt

Cao bằng ba mái nhà

Đứng đâu làm lún đất

Kiếm treo bên chói loà.

Một đoàn trăm con voi

Ào ào hơn biển động

Đạp rừng, băng suối ngòi

Kéo ngựa về Phù Đổng.

Đón ngựa xong, thần tướng

Ăn liền ba vạc cơm

Vươn vai lớn mười trượng

Bóng che trùm cả thôn.

Rồi kiếm báu ngang mày

Cúi đầu từ giã mẹ,

Mẹ nhìn con, bằng khuâng

Thương như hồi tấm bé.

Tay khấn trời, mẹ nói:

- “Nay con đã thành thần

Hãy nghe lời vua gọi

Đi cứu nước phò dân”.

Tướng thần vội quay đầu

Nhìn lại nhà lại chõng

Nhìn thúng treo đầu gióng,

Thương mẹ, lặng hồi lâu.

Con ngựa thấu lòng người

Giẫm rền hai vó sắt.

Rồi nó hí vang trời.

Bờm xé mây phần phật.

IV

Tướng thần ngồi yên ngựa

Ngựa oằn lưng, giậm chân

Cúi chào mẹ lần nữa

Và xóm làng người thân...

Vó ngựa phi như bay

Ngựa hí rụng cành lá

Gió cát nổi mù trời

Núi giật mình rạn đá.

Kiếm vung loè chớp sấm

Sáng trong tay tướng thần

Một nước phi ba dặm

Chém tơi bời giặc Ân

Kiếm chém ngang chém dọc

Chém nhanh, thép đỏ bừng

Như chân trời lửa mọc...

Giặc cụt đầu, mất lưng.

Bỗng kiếm va núi đá

Trong tay loè gẫy ngang

Tay nhổ tre từng bụi

Quật giặc chết tan hoang

Ngựa phun lửa từng hồi

Giặc cháy, khét râu tóc

Cháy rặng tre bên đồi

Giờ hãy còn sém gốc

Ngựa giậm chân động đất

Giặc lưng núi lăn kềnh

Từ đầu Lạng Giang phủ

Đến cuối rừng Vũ Ninh.

Giặc nát ra như nước

Giặc tan ra như bèo

Máu giặc làm sông đỏ

Thây giặc trôi tựa rều...

Tàn quân Ân nhớn nhác

Chạy trốn luồng lửa thiêu,

Tướng vứt bỏ áo giáp

Lính quăng cả nồi niêu

Tướng trời làng Phù Đổng

Dừng ngựa nhìn nước non

Núi sông tan bóng giặc

Lại vui vầy sớm hôm.

Cỏi giáp bào để lại

Tay quất vó ngựa lồng

Ngoái chào non nước cũ

Bay khuất giữa mây hồng.

(*) Bài thơ Phù Đổng Thiên Vương của nhà thơ Huy Cận , được trích dẫn nguyên văn từ các nguồn chính thống và đã kiểm chứng.