Tiểu sử Huy Cận
Huy Cận (31/5/1919 - 19/2/2005) tên thật là Cù Huy Cận, sinh tại xã Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh, mất tại Hà Nội. Ông sinh ra trong gia đình nông dân nhà nho nghèo dưới chân núi Mồng Gà, cạnh bờ sông Ngàn Sâu.
Ông là nhà thơ, nhà hoạt động chính trị, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1957.
Theo Wikipedia, ngày sinh hiện nay là do ông khai khi vào học ở Huế, còn ngày sinh chính xác là ngày 29 tháng 12 năm Bính Thìn (dương lịch là ngày 22 tháng 1 năm 1917). Ông lúc nhỏ học ở quê, sau vào Huế học trung học, đậu tú tài Pháp; rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông. Trong thời gian học Cao đẳng, ông ở phố Hàng Than cùng với Xuân Diệu. Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh, Huy Cận đã tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào (tháng 8 năm 1945) và được bầu vào Ủy ban Giải phóng (tức Chính phủ Cách mạng lâm thời sau đó). Huy Cận cũng từng cộng tác với nhóm Tự Lực Văn Đoàn.
Sự nghiệp & Thành tựu
Khi nhỏ, ông học ở quê, sau vào Huế học trung học, đậu tú tài Pháp. Từ đầu năm 1942, ông ra Hà Nội học Trường Cao đẳng Canh nông, ở phố Hàng Than cùng với Xuân Diệu, vừa học vừa tham gia hoạt động bí mật và làm thơ, viết văn. Cuối tháng 7-1945, ông tham dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào và được bầu vào Uỷ ban Dân tộc giải phóng toàn quốc (sau mở rộng thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà) và vào Huế nhận sự thoái vị của Bảo Đại.
Sau Cách mạng, ông trở thành một nhà chính trị, giữ nhiều chức vụ quan trọng trong chính phủ, gồm:
- Bộ trưởng Bộ Canh nông (1/1946 - 3/1946),
- Thanh tra đặc biệt của Chính phủ lâm thời, thứ trưởng Bộ Nội vụ (5/1946 - 11/1946),
- Thứ trưởng Bộ Canh nông (11/1946 - 7/1947),
- Thứ trưởng Bộ Kinh tế (1947 - 1949),
- Tổng thư ký Hội đồng Bộ trưởng (1949 - 9/1955),
- Thứ trưởng Bộ Văn hoá (1955 - 1980),
- Bộ trưởng Bộ Văn hoá - Giáo dục (2/1980 - 9/1984),
- Chủ tịch Uỷ ban Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam (1984 - 9/1995).
Các sáng tác của Huy Cận luôn bám sát hiện thực cuộc sống, thời đại, trước Cách mạng mang nét sầu não, buồn thương, còn sau Cách mạng thì lại mang nét tươi vui. Ông thơ đăng báo từ 1936, in tập thơ đầu Lửa thiêng năm 1940 gồm những bài đã đăng báo trong thời gian 1936-1940 và trở thành một trong những tên tuổi hàng đầu của phong trào Thơ mới lúc bấy giờ.
Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật đợt I (1996). Ngày 23/2/2005, ông được Nhà nước truy tặng Huân chương Sao vàng.
Đời tư của nhà thơ Huy Cận
Theo Wikipedia, về đời tư, Huy Cận có hai người vợ. Người vợ đầu của ông là bà Ngô Xuân Như, em gái của nhà thơ Xuân Diệu, từng công tác tại Ban Kiểm tra 12, Phủ Thủ tướng, Bác sĩ Viện Y học cổ truyền Việt Nam đã mất năm 2009. Người vợ thứ là bà Trần Lệ Thu, cán bộ giảng dạy Nga văn ở một trường Đại học lớn tại Hà Nội.
Huy Cận và Xuân Diệu là 2 nhà thơ lớn, 2 người bạn lớn, tri kỷ. Xuân Diệu cùng sống với gia đình Huy Cận cho đến hết cuộc đời tại ngôi nhà số 24 đường Cột Cờ (đường Điện Biên Phủ), Hà Nội.
Ông có bốn người con, hai con trai và hai con gái. Con trai cả của ông là Tiến sĩ luật Cù Huy Hà Vũ (với vợ ông là bà Ngô Xuân Như, em gái của Xuân Diệu), người 'nổi tiếng' tại Việt Nam. Em trai ông là Tiến sĩ triết học - mĩ học Cù Huy Chử, từng công tác tại Ban Tuyên huấn Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đánh giá "đích đáng' về Huy Cận
Đó chính là mô tả, đánh giá của Nhà văn Xuân Sách về Huy Cận trong tập Chân dung nhà văn, qua bài thơ chỉ mấy dòng.
Mời độc giả đọc tại link này.
Tác phẩm thơ
- Lửa thiêng (1940)
- Vũ trụ ca (1942)
- Trời mỗi ngày lại sáng (1958)
- Đất nở hoa (1960)
- Bài thơ của đời (1963)
- Hai bàn tay em (thơ thiếu nhi, NXB Văn học, 1967; NXB Kim Đồng, 1969)
- Phù Đổng Thiên Vương (truyện cổ tích bằng thơ, 1968, tái bản 1970, 1971)
- Những năm 60 (1968)
- Cô gái Mèo (1972)
- Thiếu niên anh hùng họp mặt (1973)
- Chiến trường gần chiến trường xa (1973)
- Những người mẹ, những người vợ (1974)
- Ngày hằng sống, ngày hằng thơ (1975)
- Sơn Tinh, Thuỷ Tinh (1976)
- Ngôi nhà giữa nắng (1978)
- Hạt lại gieo (1984)
- Tuyển tập Huy Cận tập I (1986)
- Chim làm ra gió (1991)
- Tào Phùng (1993)
- Thơ tình Huy Cận (1994)
- Marées de la Mer orientale Paris (1994)
- Tuyển tập Huy Cận II (1995)
- Thiên việt lương việt lãng (Bắc Kinh, 1959)
- Messages stellaires et terrestres (Canada, 1996)
- Thơ Huy Cận (1996)
Tác phẩm văn xuôi
- Tâm sự gái già (1940)
- Kinh cầu tự (1942)
- Suy nghĩ về nghệ thuật (1980 - 1982)
- Culture et politique république socialiste du Việt Nam. Paris (1985)
- Một cuộc cách mạng trong thi ca (chủ biên cùng Hà Minh Đức, 1993)
- Suy nghĩ về bản sắc dân tộc (1994)
- Các vùng văn hoá Việt Nam (chủ biên cùng Đinh Gia Khánh, 1995)
- Culture Vietnamienne traditionnelle et contemporaine (1997)