Cuộc đời và sự nghiệp tác giả Võ Quảng
Võ Quảng (1/3/1920 - 15/6/2007) là một nhà thơ, nhà văn nổi tiếng của Việt Nam. Sự nghiệp văn chương của ông chủ yếu tập trung về đề tài thiếu nhi. Ông là người đầu tiên dịch tác phẩm Don Quijote sang tiếng Việt dưới bút danh Hoàng Huy từ năm 1959.
Ông sinh tại xã Đại Hoà, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam. Năm 1935, trong khi đang theo học tú tài ở Quốc học Huế, ông tham gia tổ chức Thanh niên dân chủ ở Huế, năm 1939 làm tổ trưởng tổ Thanh niên phản đế ở Huế. Tháng 9 năm 1941, bị chính quyền Pháp bắt giam ở nhà lao Thừa Phủ, sau đó bị đưa đi quản thúc vô thời hạn tại quê nhà.
Sau Cách mạng tháng Tám, ông được chính quyền Việt Minh cử làm uỷ viên tư pháp thành phố Đà Nẵng. Khi quân Pháp tái chiếm Nam Bộ, ông được cử vào chức vụ Phó chủ tịch Uỷ ban hành chính kháng chiến thành phố Đà Nẵng. Từ năm 1947 đến 1954, làm Hội thẩm chính trị (tức là Phó Chánh án) toà án quân sự miền Nam Việt Nam. Thời gian này, ông cũng có sáng tác một số tác phẩm thơ dành cho thiếu nhi.
Sau khi tập kết ra Bắc, ông được điều về công tác ở chức vụ Uỷ viên Ban nhi đồng Trung ương, phụ trách văn học cho thiếu nhi. Ông là một trong những người tham gia sáng lập và từng giữ chức Giám đốc NXB Kim Đồng. Một thời gian sau đó, ông được cử làm Giám đốc Xưởng phim hoạt hình Việt Nam. Năm 1965, ông được kết nạp làm hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Năm 1968, ông về công tác tại Bộ Văn hoá, năm 1971, về Hội Nhà văn Việt Nam, được phân công làm chủ tịch Hội đồng Văn học thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam và giữ chức vụ này đến khi về hưu.
Năm 2007, ông được trao tặng Giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật.
Ông qua đời tại Hà Nội. Mộ phần của ông đang đặt tại nghĩa trang tỉnh Vĩnh Phúc.
Phong cách sáng tác
Võ Quảng là cây bút xuất sắc về văn học thiếu nhi ở nước ta. Ông viết cả thơ lẫn văn xuôi, cả lứa tuổi thiếu niên và lứa tuổi nhi đồng. Ở thể loại nào ông cũng thành công, để lại dấu ấn đậm nét trong lòng bạn đọc nhỏ tuổi.
Thơ Võ Quảng mang đến cho các em những rung cảm tinh tế, nhẹ nhàng trước khung cảnh quen thuộc mà các em đang sống. Qua thế giới thắm tươi và sinh động của cỏ cây hoa lá, những con vật bé nhỏ, Võ Quảng dạy cho các em cách quan sát và khám phá những cái rất độc đáo, rất riêng biệt trong sinh hoạt hàng ngày. Đó là mầm non nho nhỏ đang nằm ép lặng im giữa thân cây chợt bật dậy giữa trời “khoác áo màu xanh biếc” khi mùa xuân đến. Đó là anh đom đóm với chấm sáng bé nhỏ quen thuộc với các em ở nông thôn.
Thơ viết cho trẻ em của Võ Quảng giàu nhạc điệu, và nhờ nhạc điệu đó làm cho người đọc dễ thuộc, dễ nhớ, dễ cảm xúc, từ đó mà phát huy được chủ đề giáo dục. Các em có thể vừa đọc thơ vừa nhảy múa, vui chơi…
Ở văn xuôi, truyện của Võ Quảng viết cho nhiều lứa tuổi. Với lứa tuổi nhi đồng, ông viết truyện đồng thoại như “Cái mai”, “Bài học tốt”, “Những chiếc áo ấm”. Nhưng có lẽ phần phong phú nhất cũng là tâm huyết nhất là những truyện ông viết cho lứa tuổi thiếu niên. Có lẽ lứa tuổi sắp bước vào đời này có nhiều ước mơ, hoài bão, tác giả muốn trang bị cho các em hành trang đầy đủ hơn, muốn tâm sự với các em nhiều hơn. Tác phẩm của Võ Quảng cũng dài hơi hơn. Ông có 2 truyện vừa: Cái Thăng và Chỗ cây đa làng, viết về thiếu nhi tham gia kháng chiến chống Pháp, và đặc biệt là hai truyện dài Quê nội và Tảng sáng.
Quê nội và Tảng sáng là bộ sách thành công nhất của Võ Quảng, chứng tỏ vốn sống phong phú và tâm huyết của tác giả đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân, chứng tỏ tài năng của ông và là đóng góp lớn nhất, tiêu biểu nhất của Võ Quảng cho văn học thiếu nhi Việt Nam. Võ Quảng được nhiều nhà phê bình văn học và các nhà văn xếp là một trong số ít nhà văn xuất sắc viết cho các em nước ta ở thế kỷ 20, cùng với các tên tuổi Tô Hoài, Phạm Hổ, Định Hải…
Nhà thơ Nguyễn Biểu khi đọc những tác phẩm thơ của Võ Quảng đã có cảm nhận về phong cách thơ:
“ Võ Quảng có phong cách rõ nét. Thơ của anh linh hoạt, nhiều động tác, vần điệu phóng túng. Nhờ có con mắt quan sát tinh tế, nên cuộc sống và nhất là thiên nhiên trong anh thật đa dạng và sinh động”
Tác phẩm nổi bật:
- Cái thăng (truyện, 1961)
- Thấy cái hoa nở (thơ, 1962)
- Chỗ cây đa làng (1964)
- Nắng sớm (thơ, 1965)
- Cái Mai (1967)
- Những chiếc áo ấm (truyện, 1970)
- Anh Đom đóm (thơ, 1970)
- Măng tre (thơ, 1972)
- Quê nội (truyện, 1973)
- Tảng sáng (truyện, 1973)
- Bài học tốt (truyện, 1975)
- Gà mái hoa (thơ, 1975)
- Quả đỏ (thơ, 1980)
- Vượn hú (truyện, 1993)
- Ánh nắng sớm (thơ, 1993)
- Kinh tuyến, vĩ tuyến (truyện, 1995)