Vài nét về cuộc đời và sự nghiệp của nhà thơ Phạm Tiến Duật
Nhà thơ Phạm Tiến Duật sinh ngày 14-1-1941, mất năm 2007. Ông sinh ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ, Việt Nam. Theo Wikipedia, Cha của nhà thơ Phạm Tiến Duật là nhà giáo, dạy chữ Hán và tiếng Pháp, còn mẹ làm ruộng, không biết chữ.
Ông tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội năm 1964, nhưng sau đó không tiếp tục với nghề giáo mà quyết định lên đường nhập ngũ. Phạm Tiến Duật đã dành mười bốn năm trong quân đội và thêm tám năm ở Trường Sơn, đoàn vận tải Quang Trung 559.
Chiến tranh kết thúc, ông về làm việc tại Ban Văn nghệ, Hội Nhà văn Việt Nam. Ông sống ở Hà Nội, là Phó trưởng Ban Đối ngoại Hội Nhà văn Việt Nam. Ông cũng là người dẫn chương trình của chương trình "Vui – Khỏe – Có ích" trên kênh VTV3, Đài Truyền hình Việt Nam những năm đầu lên sóng.
Ông là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2001và được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 2012. Ngày 19 tháng 11 năm 2007, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã ký tặng thưởng Huân chương Lao động hạng nhì cho nhà thơ Phạm Tiến Duật.
Ngày 4 tháng 12 năm 2007, vào khoảng 8 giờ 50 phút, ông mất tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 vì căn bệnh ung thư phổi.
Có thể nói Trường Sơn đã tạo nên thơ Phạm Tiến Duật, và Phạm Tiến Duật cũng là người mang được nhiều nhất Trường Sơn vào thơ. Nói đến đề tài Trường Sơn đánh Mỹ, người ta không thể quên Phạm Tiến Duật. Sau khi chiến tranh đã qua, tâm hồn thơ Phạm Tiến Duật vẫn chưa ra khỏi Trường Sơn. Những bài thơ ông viết vẫn còn vang ngân lắm hình bóng của Trường Sơn.
Ông đóng góp chủ yếu là tác phẩm thơ, phần lớn thơ được sáng tác trong thời kỳ ông tham gia quân ngũ. Phạm Tiến Duật chủ yếu viết về hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
Phạm Tiến Duật từng bộc bạch: “Tôi gắn bó máu thịt với Trường Sơn và có thể nói Trường Sơn đã đẻ ra nhà thơ Phạm Tiến Duật. Trước đây, bây giờ và sau này nếu tôi viết được chút gì neo lại trong lòng bạn đọc chính là nhờ những năm tháng ở Trường Sơn”.
Thơ của ông được các nhà văn khác đánh giá cao và có nét riêng như: giọng điệu sôi nổi, trẻ trung và có cái "tinh nghịch" nhưng cũng rất sâu sắc. Nhiều bài thơ của ông đã được phổ nhạc thành bài hát trong đó tiêu biểu nhất là "Trường Sơn đông, Trường Sơn tây".
Phạm Tiến Duật có giọng thơ không giống ai, và cũng khó ai bắt chước được, dù hồi đó đã thấy vài người mô phỏng. Thơ ông khó bắt chước vì giọng đùa đùa, tinh nghịch, tếu táo nhưng lại đụng vào những miền sâu thẳm của tình cảm con người. Giọng ấy là của một chất tâm hồn chứ không phải chỉ đơn thuần một kiểu cách chữ nghĩa.
Kháng chiến chống xâm lược Mỹ là cuộc chiến tranh ác liệt, nhất là ở Trường Sơn. Hy sinh lớn, gian khổ nhiều, thơ cần phản ánh chân thật thực tiễn ấy, nhưng lại không được gây bi luỵ, xót thương bởi cuộc chiến đang cần sự phấn đấu của lòng người. Mà cũng không được lên gân, cao giọng hay cắt bớt nét dữ dằn của thực tế chiến tranh.
Nếu như nhiều nhà thơ cùng thời kỳ không vượt qua được thử thách này, thì Phạm Tiến Duật lại làm được điều ấy bằng những lời thơ tưởng chừng mộc mạc mà lại tạo nên bao sự suy ngẫm cho độc giả:
"Cạnh giếng nước có bom từ trường
Em không rửa ngủ ngày chân lấm
Ngày em phá nhiều bom nổ chậm
Đêm nằm mơ nói mớ vang nhà."
Giọng thơ Phạm Tiến Duật rất gần với câu nói thường ngày. Câu nói khác câu thơ là không du dương trau chuốt, nó thô mộc như chỉ có nhiệm vụ thông tin. Nhà thơ đã dùng chức năng thông tin ấy mà tạo nên nét thơ rất Phạm Tiến Duật.
Nhà thơ đặt thông tin nọ cạnh thông tin kia, như ngẫu nhiên, như có sao nói vậy, không bình luận móc nối gì, mà thành ra tình cảm, ra nghĩa lý sự đời. Bài thơ Công việc hôm nay, viết khoảng năm 1966-1967, giống như văn bản tin Thông tấn xã:
"Cục Tác chiến báo sang tin cuối cùng
Về số máy bay rơi và tàu chiến cháy
Nha Khí tượng, tin cơn bão tan
Bộ Nông nghiệp, tình hình vụ cấy..."
Trong những tờ trình Thủ tướng ký đọc trong đêm còn có việc hoàn thành bộ thông sử đầu tiên. Chính cái chất bản tin ấy đã tạo nên thơ: giữa bao nhiêu việc gấp gáp của đời sống chiến tranh, chúng ta vẫn dành sức lo cho lâu dài (bộ sử). Điều đó không chỉ là sự bình tĩnh mà còn là niềm tin vào thắng lợi cuối cùng.
Phạm Tiến Duật muốn để sự kiện tự nói. Ông tinh tế trong quan sát, lại giàu có khi liên tưởng nên mới bắt chi tiết tự nói được như vậy. Với Phạm Tiến Duật, chi tiết nào của đời cũng có thể thành thơ, từ độ cao vật lý bảy trăm mét, một nghìn mét, tám nghìn mét đến dáng vẻ các loài hoa, loài cây, rồi xe không kính, rồi xoong nồi xủng xoảng, rồi nằm ngửa nằm nghiêng...
Đây là một bước tiến dài trong sự “tiêu hoá” của thơ. Đâu cứ phải mây gió trăng hoa mà tất tật, thượng vàng hạ cám của đời đi qua tâm hồn Phạm Tiến Duật đều thành thơ. Ông đã kế thừa truyền thống “tạp thực” của thơ đội viên kháng chiến chống Pháp và xa nữa là Tú Xương đầu thế kỷ.
Vật liệu xây dựng nên bài thơ của Phạm Tiến Duật là việc thật của đời sống chiến tranh, còn nguyên lấm láp cát bụi chiến hào, không sơ chế tái chế gì, giọng thơ thì tếu, vui, nhưng cảm xúc lại là trữ tình thấm thía, tình cảm sâu và rộng:
"Cũng vương tóc rối chân gà
Cũng tiếng chó sủa chiều tà sau cây
Cũng quần áo ướt phơi dây
Cũng gàu múc nước. Ô hay, cũng làng"
Thắm một hình ảnh làng đến vậy là nỗi lòng người lính ở Trường Sơn những năm chiến tranh, khi mà không khí thanh bình làng quê xứ sở đã thành niềm xa lắc. Phạm Tiến Duật không trực tiếp nói nỗi lòng ấy nhưng người đọc lại thấy được rất rő.
Đằng sau giọng thơ, cái lői cảm xúc này mới là chính yếu làm nên chất thơ chiến tranh Phạm Tiến Duật. Nhân vật thơ thường hoà vào tác giả. Ở Phạm Tiến Duật không, hoặc ít, phân biệt chủ thể, khách thể. Có lẽ khách chủ cũng đều là bộ đội nên họ dễ dàng thành một.
Phạm Tiến Duật thật sự là người đã mở rộng phạm vi cái nên thơ, giúp thơ thực tế hơn với đời sống và giúp đời sống trực tiếp bước vào thơ.
Nhà văn Nguyễn Văn Thọ từng bình luận: "Thơ ông mang hơi thở của cả một thời đại nhưng bằng một khí phách ngang tàng, chất bụi bặm và kiêu bạc của người lính thời chống Mỹ. Thơ ông có sức mạnh của cả một binh đoàn trùng trùng ra trận".
Nhà thơ Đỗ Trung Lai nhận xét: "Đường Trường Sơn - đường mòn Hồ Chí Minh, bằng ý nghĩa vĩ đại của nó, bằng phẩm chất anh hùng của nó, lại đẻ ra một con đường thơ mà nhà thơ hay nhất của con đường ấy, là Phạm Tiến Duật".
Ông được ca tụng là "con chim lửa của Trường Sơn huyền thoại", "cây săng lẻ của rừng già", "nhà thơ lớn nhất thời chống Mỹ" và "ngọn lửa đèn" của một thế hệ nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ. Thơ Phạm Tiến Duật thời chống Mỹ từng được đánh giá là "có sức mạnh của cả một sư đoàn".
Phạm Tiến Duật trong 'Chân dung nhà văn' của Xuân Sách
Trường Sơn đông em đi hái măng
Trường Sơn tây anh làm thơ cho lính
Đời có lúc bay lên vầng trăng
Lại rơi xuống chiếc xe không kính
Thế đấy! giữa chiến trường
Nghe tiếng bom cũng mạnh!
(Nguồn: Bách Khoa Thư Viện - Xuân Sách)
Những tập thơ chính của Phạm Tiến Duật có thể kể đến:
- Vầng trăng quầng lửa (thơ, 1970), nổi tiếng nhất với tác phẩm "Bài thơ về tiểu đội xe không kính"
- Ở hai đầu núi (thơ, 1981)
- Vầng trăng và những quầng lửa (thơ, 1983)
- Thơ một chặng đường (tập tuyển, 1994)
- Nhóm lửa (thơ, 1996)
- Tiếng bom và tiếng chuông chùa (trường ca, 1997)
- Tuyển tập Phạm Tiến Duật (in xong đợt đầu ngày ngày 17 tháng 11 năm 2007, khi Phạm Tiến Duật đang ốm nặng).